Donnerstag, 4. August 2011

“Tam Bảo Điền, Tam Bảo Nô” (1)



Audio: Người đọc: Chính Khí Việt.

Text: Bài "Tam bảo Điền, Tam bảo Nô" - của tác giả Vân Anh: Loạt bài viết (1,2,3) về tập đoàn công an đầu trọc của bè lũ Việt gian đội lốt  giả danh "Cộng sản và "Phật giáo"  dưới danh xưng "GHPGVNTN" và "PGVN", tên tiếng Anh "UBCV" và "BCV". ( Sẽ có bản dịch tiếng Đức - Die deutsche Übersetzung folgt )


“Tam Bảo Điền, Tam Bảo Nô”
Ảnh minh hoạ 1+2: Cái gọi là „Gia đình Phật tử", “Lực lượng tranh thủ cách mạng“, „Sinh viên Phật tử“, „Chiến đoàn Đại Thức“… (có vũ trang), một trong vô số các tổ chức ngoại vi do các cán bộ đảng viên Việt gian cộng sản như Đôn Hậu, Trí Quang… giả danh đội lốt „GHPGVNTN“ và bọn tay sai hoạt động nằm vùng trong lãnh thổ VNCH, chúng tuyên truyền tẩy não, kích động và cưỡng bức thanh thiếu nhi và các tầng lớp Phật tử xuống đường biểu tình, bạo động làm bia đỡ đạn cho quân đội Cộng sản Bắc Việt cùng đánh phá, xâm lăng chính quyền quốc gia VNCH thời kỳ 1963.
Ảnh minh hoạ 2:
Ảnh minh hoạ 3: Vì đã bị „tẩy não toàn phần“, nên xưa là „Thanh thiếu nhi“ của „Gia đình Phật tử“ ,“Lực lượng tranh thủ Cách mạng“… thì đến tận hôm nay năm 2011, dù đã „lên lão“ nhưng các „Tam bảo Nô“ trong „Gia đình Phật tử VN“ của GHPGVN ở trong nước và GHPGVNTN hải ngoại vẫn trung thành „cảm tử“ bảo vệ các tên Việt gian CS phản quốc „chư tăng chính uỷ“ (giờ đã lên „tăng thống“) như Thanh Tứ (trong nước), Huyền Quang, Quảng Độ, Hộ Giác, Nhất Hạnh (hải ngoại)…Nay có thêm „Lực lượng cư sỹ chấn hưng Phật giáo“, „Khuôn hội Huyền Quang“…vẫn sát cánh cùng bọn công an trọc, và các đảng viên Việt gian CS trá hình đảng „Việt Tân“ tiếp tục đánh phá cộng đồng người Việt quốc gia tỵ nạn VGCS tại nước ngoài theo „nghị quyết 36“. Tại miền Bắc Việt nam từ những năm 1930 và trên toàn cõi Việt Nam từ 30.4.1975 thì cả dân tộc và nhiều thế hệ „Gia đình Phật tử Việt nam“ đã bị đảng Việt gian CS, đầu xỏ là tên đại Việt gian họ Hồ dùng chiêu bài „Cộng sản“, giả danh đội lốt „tôn giáo“ và hết thảy, tẩy nảo ru ngủ đầu độc để có thể tiếp tục… u mê như thế.

Vân Anh
Bài 1


Từ khi sinh ra làm kiếp con người, trong đời sống cho một kiếp nhân sinh thì rất hữu hạn, nhưng dục vọng của con người thì lại vô hạn. Cho nên xã hội chúng ta đang sống đây, thì rất nhiều người ăn gian nói dối, phàm phu tục tử, lưu manh, lường gạt, lừa thầy phản bạn, nhưng chúng lại thích đội lốt thầy tu để lừa bịp, gạt gẫm những người nhẹ dạ dễ tin, chúng hiện diện chung quanh chúng ta rất nhiều; chúng đang sống nhan nhản chung quanh ta dưới những chiếc áo “cà sa” hoặc ăn mặc diêm dúa, đi xe hơi sang trọng bóng loáng, nhưng mồm của chúng lúc nào cũng tự xưng chúng là những bậc “Chân Tu Thánh Thiện”, chúng kêu gào “bố thí”, “cúng dường”. Nhưng chính bọn chúng là một đám tham lam nhất và vơ vét nhiều nhất.


Ngày xưa Đức Thế Tôn đã rời bỏ cung vàng điện ngọc mà đi. Ngày nay bọn Công an trọc đầu lại nhân danh Đức Phật xây chùa cho to đúc tượng (Phật) cho cao để lừa bịp người đời. Chúng hòng tạo uy quyền để làm hậu thuẫn chính trị, dùng số đông (những người thiếu suy nghĩ dễ tin) để áp đặt những gì chúng muốn lên đầu người khác. Điều này nếu là những Phật Tử chân chính thì chúng ta, chính chúng ta cũng phải góp vào mỗi người một lời nói, một bàn tay, cũng như cùng nhau mạnh dạn tẩy uế cửa Thiền cho Phật và Pháp được trong sạch. Người Phật Tử chúng ta không thể để cho các ác thế lực, các tên Công an trọc đầu lợi dụng danh nghĩa nhà Chùa mà lấn áp được đời sống của đại đa số người dân trong xã hội của chúng ta đang sống. Nhìn chung từ trước cho đến nay trong dòng sống của xã hội Việt Nam chỉ có bọn Công an trọc đầu với danh xưng “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất” là hoạt động nằm vùng đánh phá các Chính Quyền Quốc Gia (nên nhớ Chính Quyền) để tiếp tay hỗ trợ cho thế lực Cộng sản. Cầm đầu trong cuộc đánh phá này là tên (Thích) Trí Quang Phạm Văn Bồng, kế đến là tên Thích Minh Châu cầm đầu “phật học viện vạn hạnh” (không viết hoa). Đây cũng là nơi chuyên môn đào tạo tầng lớp cán bộ công an để làm “sư công an” hầu làm “giám tự” cai quản các chùa chiền quốc doanh của Đảng trong và ngoài nước. Như vậy bây giờ và sau này toàn thể nhân dân Việt Nam cần phải góp công, góp sức tiêu diệt các đảng viên cán bộ công an Cộng sản trọc đầu trá hình làm “sư”, cùng lúc với sự tiêu diệt chế độ và đảng Việt Gian Cộng sản của chúng.


Trong lịch sử Á Châu nói chung và nước Việt Nam nói riêng, chúng ta thấy thế lực của các “sư” cũng đã nhiều lần làm loạn chính sự. (ví dụ như Chu Nguyên Chương - Tổ của nhà Minh - cũng xuất thân từ nhà “chùa”, nhưng tên này lại giết người như ngoé, xem mạng người như cỏ rác). Đơn cử vào khoảng năm 1389, ở chùa Quốc Oai có ông “sư” tên Phạm Sư Ôn đã cùng với hàng “tăng lữ” đệ tử của ông đã nổi dậy chiếm kinh thành. Khiến cho cả triều đình phải bỏ kinh đô mà chạy. Sau đó Sư Ôn đã bị tướng Hoàng Thế Phụng bắt và dẹp tan. Phạm Sư Ôn làm loạn cũng chỉ vì quyền lợi của nhà “chùa” (của y) bị triều đình trực tiếp va chạm. Quân điền và hạn điền đã đụng chạm đến nhà “Chùa” và các hàng “tăng lữ” bên dưới, cho nên các tên gọi là “Sư” đã nỗi loạn cũng không ngoài mục đích không phục tòng triều đình cũng như tranh ăn và tranh quyền lực chính sự. Trong các cuộc nổi loạn và làm loạn trong quá khứ cho đến gần đây nhất, chúng ta phải kể đến cuộc nổi loạn của tổ chức công an trọc đầu Cộng sản ẩn nấp dưới danh nghĩa là “sư” hay “thầy tu” và chúng có tên thật dài là: “giáo hội phật giáo Việt Nam thống nhất Ấn Quang” (GHPGVNTNAQ). Từ đầu thập niên 60’s cho đến 69’s, mà cái mốc năm 1963 là hải hùng và kinh khiếp nhất.

Nếu chúng ta tin theo kiếp “Luân Hồi”, thì tên Trí Quang Phạm Văn Bồng chính là Phạm Sư Ôn đầu thai lại cũng đúng lắm (vì hai tên làm loạn này mang cùng họ với nhau), điều nửa là ông tướng dẹp được loạn Sư Ôn có tên là Phụng. Mấy trăm năm sau vào thập niên 60’s ông Tướng đã dẹp được tên loạn Trí Quang Phạm Văn Bồng có tên là Loan (Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan) (Loan - Phụng). Cả hai tên làm loạn họ Phạm này khi bị (triều đình) bắt tội thì đều có điểm trùng với nhau là chúng đều vãi (đái) ra quần khi bị bắt.


Chính vì bọn giả sư nhiễu sự như vậy cho nên vào năm Tân Dậu, Phù Xương thứ 5 tức năm 1389 Tể tướng Lê Quý Ly sức cho Đại Nạn Thiền Sư xung hết các tăng lữ trong nước phải vào quân đội để đi đánh Chiêm Thành. Bảy năm sau tức năm 1396, để trong sạch hóa cửa Thiền; Quý Ly bắt buộc các tăng sĩ phải trên lứa tuổi 50 (phải trên 50 tuổi) và phải trải qua một kỳ thi khảo hạch rất kỹ về Đạo (Phật) học, cũng như có đầy đủ Đạo Hạnh mới được Tu. Người nào hiểu thông suốt kinh kệ (do hàng cao tăng khảo sát và chấm điểm) thì được xung vào chức “Tăng Đường Đầu Mục”, dưới nửa là chức “Trị Cung” rồi “Trị Quán”, rồi “Trị Tư” và hàng cuối cùng là hạng “Tu Nhân Thị Giả”. Hạng tu nhân thị giả này chỉ lo việc đốt hương, giữa Chùa cũng như quét dọn sân và vườn của nhà Chùa. Những ai dưới 50 tuổi không hội đủ điều kiện Đạo Học, yếu kém về Đạo Hạnh cũng như không hiểu nhiều về “kinh kệ”, thì bắt buộc phải hoàn tục vĩnh viễn. Và điểm quan trọng là Quý Ly ra lệnh buộc cho tất cả các nhà Chùa Không Được Dùng “Tam Bảo Nô” và “Tam Bảo Điền”.

Vậy “Tam Bảo Nô” và “Tam Bảo Điền” là gì?, “Tam Bảo Nô”; họ là những người dân Việt nghèo khổ lam lũ phải mang thân làm nô lệ cho các “sư” ở các Chùa, hay còn gọi họ là “Hoành Nô”. “Hoành Nô” vì đám nô lệ này có thể trao đổi qua lại (Hoành) hoặc hiến dâng từ chùa này sang chùa kia với sự thoả thuận giữa các “sư” với nhau. Hình thức này tương tự như chúng buôn bán Nô Lệ bên Âu Châu ngày xưa vậy. Nhưng chúng ta nên nhớ rằng: “nô lệ Âu Châu” do người da trắng bắt và bán người da đen, “Tam Bảo Nô” ở trên là do người Việt bắt người Việt làm Lao Nô. Và một điều nên nói cho rõ ràng là những người Lao Nô cho “Tam Bảo” (cho nhà Chùa), chứ không phải là những “Phật tử” xung công hoặc làm “công quả” cho nhà chùa, hai điểm này hoàn toàn khác nhau!. Còn “Tam Bảo Điền là ruộng và đất (vườn cây) của nhà Chùa, mà những người “tam bảo nô” phải ra sức làm để xung tiền của vào cho các “sư” (ở chùa). Và “Tam Bảo” là gì ?. Tam Bảo là Phật, Pháp và Tăng (hàng tăng lữ). Ở đây cũng phải nói thêm rằng những người làm Nô Lệ cho “Tam Bảo” này, thì họ không được có gia đình và tình riêng (Nam cũng như Nữ). Có những cô gái được xung vào đội ngũ “tam bảo nô” họ chỉ mới có 20 hay 21 tuổi. Những người Việt Nam nghèo khổ và đau khổ này họ bị làm nô lệ chính ngay trên mảnh đất mà ông cha họ cũng đã tốn xương tốn máu để chống ngoại xâm Bắc thuộc và giữ gìn đất nước cho bọn gọi là “sư” đang ngồi phung phí, xương máu, công sức, kể cả thân xác của họ trong các nơi chúng gọi là “nhà chùa”!. Đây có thể nói là một tội ác rất lớn của hàng “tăng lữ” vào thời đó, và còn kéo dài cho đến tận ngày hôm nay .

Ngày nay một số nơi gọi là “nhà chùa” ngay trên nước Mỹ (chưa nói đến trong nước Việt Nam) này vẫn xử dụng những người đến làm “công quả” trong các “chùa” tương tự như họ đang xử dụng đám “tam bảo nô” thời xa xưa vậy. Số “Nô” này trong các nhà “chùa Việt Nam” ở Mỹ đang xử dụng, họ được gởi đi từ Việt Nam sang mỹ để … may vá đồ! (ở Mỹ này mà chúng cũng còn bịp chuyện may vá áo quần giống đời xưa) cho các “ni và sư”, cũng như để làm vườn và trồng rau cải và làm ra thức ăn (tươi) cung cấp cho các “ni, sư” ở trong các nơi gọi là “chùa”. Ví dụ: có nhiều “chùa” các “sư” không bao giờ chịu ăn đậu phụ (đậu hủ) để qua nhiều đêm mà các “sư” chỉ muốn ăn tươi sau khi làm ra trong một hay hai ngày mà thôi. Các “lao nô” này họ đã tiết lộ cho người viết như vậy, và ở vài tháng như vậy họ được gởi đi làm “lao nô” cho các “chùa” khác nửa. “Lao Nô” nào không làm đúng những điều chúng quy định thì sẽ bị trả về Việt Nam. Thiết nghĩ các điều này khi được viết ra đây sẽ làm cho các cơ quan an ninh của các quốc gia sở tại sẽ phải có những biện pháp để chận đứng ngay các vụ buôn bán nô lệ qua hình thức “Tam Bảo Nô” và “Tam Bảo Điền” Tân Thời này. Vậy thử hỏi một nhân viên an ninh Tây phương (nhất là nước Mỹ) nay trên dưới 30 - 35 tuổi họ có hiểu được cách buôn bán nô lệ qua hình thức như người viết vừa nêu ra ở trên hay không?!. Chắc chắn là không nếu quý vị không chịu hiểu thêm về văn hóa của người Á Châu. Và nay nếu hiểu ra quý vị có phương pháp gì để chận đứng những sự việc như đã nói ở trên!.


(Đọc một đoạn văn trên đây quý vị cũng như đọc giả người Việt phải hiểu rằng: Như vậy thì các “chùa chiền” và hàng “tăng lữ” được gởi sang Mỹ là do bàn tay của bọn công an tình báo Cộng sản trong nước điều động, bọn công an Cộng sản trọc đầu chúng được chỉ thị và chỉ đạo từ Việt Nam sang đây để mua nhà, mua đất xây chùa (nhưng chúng nói khống là tiền quyên góp để trốn thuế cũng như che mắt các cơ quan an ninh Hoa Kỳ. Nhưng chúng đã nhầm to . Các tên công an trọc đầu cứ đợi 1 thời gian nửa xem sao!). Và hôm nay chúng đã thật sự trở thành một hệ thống, một tổ chức, có quy củ và có liên kết chặt chẻ khắp nơi!. Như vậy riêng ở Mỹ này các cơ quan an ninh không dễ gì tiêu diệt được chúng trong một sớm một chiều, và nước Mỹ coi chừng cũng có ngày sẽ bỏ “kinh thành” mà chạy. [(người viết đã có dịp đến các nơi gọi là “chùa” và chứng kiến đám “sư” trẻ nằm xấp trên các tấm nệm (đệm) xem phim Kungfu (phim chưởng) của Tàu. Người viết có hỏi rằng tại sao các “sư” không lo kinh kệ mà lại nằm xem phim chưởng như thế này!, thì các “sư” trả lời rằng: “rảnh; nên xem cho vui”. Và cũng được biết có “chùa” ở miền Bắc Calif các “sư nữ” mặt mũi non choẹt cũng mặc đồ “mát mẻ” vào mùa hè vì Calif …. trời nóng)]. Những điều trên đây là có thật nên không có chuyện nói oan cho các … “tăng, ni”. Ở Việt Nam hiện nay “Chùa” mọc lên như nấm. Một xã hội nghèo đói như xã hội Cộng sản Việt Nam mà ông “sư” Quảng Độ đang sống trong cái gọi là “Tu Viện” trị giá hơn 1.5 triệu đô la. Đọc giả nên nhớ 1.5 triệu đô la là một số tiền quá lớn đối với đời sống lam lũ của hầu hết đa số người dân Việt Nam hiện nay. Ngay cả đời sống của người Việt trung lưu ở Mỹ, thì thử hỏi người Việt Nam nào có tiền để mua một căn nhà trị giá 500 nghìn đô la, chứ nói chi đến 1 triệu 500 nghìn đô la như “tu viện” của “sư Quảng Độ” hiện nay. Thật tình người viết không thể hiểu nổi. Nhưng “sư Tàu vị yểu” Quảng Độ Đặng Phúc Tuệ cũng lừa được mấy anh Việt Gian và Mỹ Gian chuyên làm trò, thế mới lạ chứ!.

Triều đại cuối đời nhà Trần thì hàng “Tăng Lữ” của Việt Nam quả thật là đông đảo không kém chi triều đại nhà Lý trước đó. Tất cả các phẩm vật, tiền bạc, ruộng vườn “Cúng Dường” cho “Tam Bảo” đều được miễn thuế đã chiếm một số quá lớn so với một đất nước quá bé nhỏ như Việt Nam thời xa xưa đó. Chỉ riêng Văn Huệ Vương Trần Quốc Triền đã “cúng dường tam bảo” cho chùa Quỳnh Lâm hơn một nghìn (1,000) mẫu ruộng và đất vườn, ngoài ra ông còn cung cấp cho nhà Chùa hơn một nghìn (1,000) “Tam Bảo Nô”, đó là vào năm 1324. Không riêng gì chùa Quỳnh Lâm mà hầu như tất cả các chùa trên đất Việt vào thời đó mỗi “chùa” đều có hàng trăm “tam bảo nô”. Tài liệu này đã được ghi lại trong Thư Kỷ của triều đại nhà Trần và còn ghi lại trong Tam Tổ Thực Lục và sách Toàn Thư cho đến ngày nay.

Đời Trần Nhân Tôn; xã hội thời đó đã thấy xuất hiện lớp “Nô Tì” cho nhà “chùa”. Một bài “Minh” được đúc trên Đại Hồng Chung của chùa Thánh Quang (Yên Nội, Hà Đông) ghi lại tầng lớp “Nô” này của nhà Chùa và sau đó ông cho đúc một quả Chuông nặng 400 cân và đặt tại “ruộng tam bảo” (tam bảo điền) để ghi công đức của Công chúa Túc Trinh cũng như thờ phụng hương hỏa Thượng Phẩm Minh tự Trần Khắc Hãn. Tất cả các công việc từ cày cấy trồng trọt, đào ao, đào hồ kể cả chăn nuôi (để bán sản vật cho dân) đều do “tam bảo nô” gánh vác từ đời này sang đời kia (nhiều lớp người). Ví dụ như chùa Sùng Khánh ở Hoằng Nông (huyện Vị Xuyên là một Huyện nhỏ) mà nhà “Chùa” đã có đến 70 mẫu ruộng chưa kể đất vườn. Văn bia “Sùng Khánh Tự Bi Minh Tịnh Tự” trong chùa này cũng ghi lại tên của các “tam bảo nô” còn lưu truyền đến ngày nay.


Quốc nạn “Tam Bảo Điền, Tam Bảo Nô” là lý do chính mà Tể Tướng Lê Quý Ly đã nhìn thấy trước hiểm họa của các thế lực của nhà “chùa”. Lê Quý Ly với bàn tay sắt bọc nhung ông đã thành công trong việc giải phóng các hạn  và từ sau thời của Lê Quý Ly chính sách “tam bảo điền, tam bảo nô” có từ thời nhà Lý đã cáo chung (Vua Lý Công Uẩn lên ngôi vào năm 1010, chính sách “tam bảo điền, tam bảo nô” cáo chung khoảng năm 1390. Vậy thử hỏi rằng trong 380 năm này đã có bao kiếp người Lao Nô cho cái gọi là “Tam Bảo” ?!. Các Sử Gia ngày nay tại sao không dám nói lên tiếng nói cho Công Đạo, hay là họ sợ “phạm tội” với các “sư”!!!. Triều đại nhà Lý (Lý Công Uẩn) dân Việt đã tốn biết bao nhiêu tiền bạc và công sức trong việc đúc tượng, dệt lụa và xây chùa chỉ nhằm để phục dịch cho các “sư”. Có lẽ đây là lý do chính mà các tên Công an trọc đầu ngày nay lúc nào cũng mơ tưởng đến thời “Phật giáo” thịnh trị của triều đại nhà Lý trên đất Việt). Nhưng một điều mà các tên công an trọc đầu ngày nay chúng quên rằng: chúng là những tên Việt Gian Cộng sản bán nước, thì làm sao chúng được may mắn để hưởng những bổng lộc như các vị sư thời đó!.


Trong các bài gọi là “thuyết pháp trên Paltalk” của “pháp sư” Giác Đức chưa bao giờ ông dám nhắc đến chuyện “tam bảo điền, Tam bảo nô” đã có từ thời nhà Lý và mấy trăm năm sau đã bị dẹp tan bởi Tể tướng Lê Quý Ly. Ông Giác Đức chỉ nhắc lại chuyện ông có liên hệ làm tình báo và gián điệp với cơ quan tình báo nước ngoài như CIA chẳng hạn. Rõ ràng ông Giác Đức là loại Thùng Rỗng nên Kêu To, chứ nếu là loại “Tình Báo Thật” thì ông sống để bụng và chết đem theo những điều ông đã biết. Và chắc chắn không có một tay tổ tình báo nào lại đem chuyện nghề nghiệp của mình đi nói oang oang trên hệ thống Chatting (Paltalk) bao giờ cả. Ông Giác Đức nên mở tầm mắt ra mà nhớ một điều: Tình Báo, Gián Điệp họ là những Anh Hùng là Tinh Hoa của một Dân Tộc (bất cứ gián điệp, tình báo của dân tộc nào). Vì họ thành công không ai biết, thất bại và chết cũng không ai hay. Họ thật sự hy sinh thân xác cũng như tình riêng của họ để mong được phục vụ cho tổ quốc họ. Cho nên chỉ có các bậc Thánh mới xử dụng họ được. Hơn nửa người Á Châu văn hóa của họ là:“Trọng Anh Hùng”. Đó là Tình Báo và Gián Điệp, chứ không phải đi “săn tin” cho người, rồi vênh váo úp úp, mở mở tự cho mình là: “làm việc cho CIA”, lần sau ông Giác Đức nên nói rằng: “tôi làm việc Với CIA, chứ không làm việc Cho CIA”, thì đó mới là việc làm của “tình báo” có ý nghĩa vậy!.

Thời đại văn minh tân tiến ngày nay cho chúng ta thấy các hàng “tăng lữ” (tăng và ni) của GHPGVNTN Ấn Quang không phải là những người “tu thật”, chúng lại có nhiều tiền bạc do thập phương “cúng dường”, nên càng rất dễ bị lôi cuốn vào con đường tà đạo, dâm dục. Có lẽ vì cửa Phật thánh thiện thiêng liêng mầu nhiệm nên khi bọn ma, bọn quỷ giả vờ tu hành, chúng đã mau chóng hiện nguyên hình với các tính nết ma quỷ, dâm ô, ham tiền bạc, ham dâm dục và tham lam vô kể, chúng tham lam hơn bất cứ người phàm tục nào. Tăng ni trọc đầu Cộng sản của GHPGVNTNAQ chuyển tiền ở Mỹ về Việt Nam mua nhà cửa, mua ruộng đất để có thể xây “chùa” làm nơi trú ẩn hòng che dấu quá khứ công an Cộng sản của chúng, lỡ khi có biến thì chúng cũng sẽ biến các “chùa” này trở thành các căn cứ tiền đồn chống lại lực lượng Quốc Gia. Tương tự như chúng đã làm vào năm 1968 ở Việt Nam nói chung và ở Huế (miền Trung) nói riêng. Sau này khi tiêu diệt xong bọn Việt Gian Cộng sản, các chính quyền Quốc Gia cần phải điều tra tường tận những tội ác, làm tiền, dâm dục, hủ hóa, nằm vùng và hoạt động công an trọc đầu Cộng sản của tập thể cư sĩ, tăng ni “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Ấn Quang” và các tổ chức ngoại vi của chúng như: các “Gia Ðình Phật Tử”, “Tăng Ðoàn Bảo vệ Chánh Pháp”, “Phòng Thông Tin Phật Giáo Paris”. Và nhất là phải bắt và dẫn độ tên Việt Gian Võ Văn Ái về Việt Nam trị tội để làm gương cho hậu thế. Thiết nghĩ lúc đó chính quyền Pháp nên giải giao tên lùn Võ Văn Ái cho chính quyền Quốc Gia để kết tình giao hảo với một nước Việt Nam hoàn toàn không còn bóng dáng ma quỷ Cộng sản phá nước nửa!.


Nếu tính thì từ năm 1963 đến 1975, trong 13 năm này thì Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Ấn Quang (GHPGVNTNAQ) đã đánh phá Quốc Gia Việt Nam và Chính Quyền miền Nam bằng đủ kiểu, đủ cách. Chúng đánh bằng vũ trang phá hoại, nội chiến du kích, cầm đầu đảo chính, chúng nằm vùng và hoạt động Cộng sản cho đến khi miền Nam sụp đổ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Trong hai tháng 3 và 4 năm 1975 và cho đến sáng ngày 30/4/1975, các tăng ni GHPGVNTN từ Huế, Ðà Nẵng, Khánh Hòa, Ðà Lạt, Cần Thơ; những miền Vạn Hạnh, Vĩnh Nghiêm và Ấn Quang đều cầm cờ Phật giáo ra đón bộ đội Cộng sản từ Huế vào đến Sài Gòn, Cần Thơ, để chiếm miền Nam. Hình ảnh Cộng sản nội tuyến của chúng ngày nay đều có đăng tải trên hệ thống youtube.com cho nên chúng không thể chối cãi hay nói láo như thời trước đây được nửa. Sau ngày 30/4/1975, GHPGVNTNAQ đã “hiện nguyên hình” là bọn Công an Cộng sản trá hình cạo trọc đầu, hay nói đúng hơn bọn này là công cụ gián điệp, nằm vùng, đặc công Cộng sản, cực kỳ nguy hiểm cho Tổ Quốc và Quốc Gia Việt Nam.


Sau cuộc đảo chính và Tổng thống Ngô Đình Diệm bị giết chết ngày 2/11/1963; lúc đó Liên Phái Phật Giáo mở cuộc họp tại chùa Xá Lợi hai ngày 31 tháng 12/1963 và 1 tháng 1/1964 để “thống nhất” thành Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN). Sau đó tăng ni công an Cộng sản xúc tiến mọi hoạt động và kế hoạch tranh đấu chính trị và bạo lực thật nhanh để cướp Chính Quyền miền Nam, chúng tính trước khi tình hình quân sự chuyển mạnh và người Mỹ có thể mang quân vào miền Nam. Đó là lý do ngày 14/1/1964, “Chủ tịch” nước Dương Văn Minh ký giấy phép hoạt động cho GHPGVNTN. Hai ngày sau tên Việt Gian Dương văn Minh ra lệnh thả hết tù Cộng sản. Trong số này có gián điệp nằm vùng Vũ Ngọc Nhạ ở trong tổ tình báo chiến lược với bí số A-22, tên tình báo Bảy Liếm tức La Văn Liếm (gốc Tầu), chỉ huy Biệt Ðộng Nội Thành Sài Gòn - Chợ Lớn. Liếm là tên chỉ huy một biệt đội đặc công chuyên ám sát và phá hoại. Sau năm 1975 đảng Việt Gian Cộng sản đã “đại thắng”, cho nên các tăng ni công an trọc đầu Cộng sản của chúng không cần phải úy kỵ nửa, nên chúng công khai ra mặt làm “sư” công an trọc đầu cho chế độ. Từ đó người dân miền Nam gọi chúng là “mấy thằng công an trọc đầu quốc doanh” là vậy.


Sau ngày chúng gọi là ngày “đại thắng” 30/4/1975, GHPGVNTNAQ được coi là tổ chức đầu não, nhưng lại có thể được coi ngang bằng đảng Cộng sản và Mặt Trận Tổ Quốc. Và “Đảng” “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất” được họp đại hội 5 năm một lần giống như Ðảng Cộng sản và Mặt Trận Tổ Quốc. Lần đầu, chúng họp đại hội kỳ I họp tại chùa Quán SứHà Nội trong hai ngày 4 và 5 tháng 11/1981 với 165 đại biểu của 22 giáo hội “Phật giáo”. Tại đại hội kỳ I này, GHPGVNTN đã “cải tạo” và tiêu diệt 21 giáo hội Phật giáo khác, và chiếm đoạt toàn bộ chùa chiền với hơn 10,000 tự viện trên toàn quốc cho đến ngày nay. Tất cả các vị Chân Tu bị đuổi ra khỏi chùa và về nhà tu tại gia và vĩnh viễn không được có chùa. Đọc giả nên nhớ cho một điều bất di bất dịch rằng: Dưới chế độ Cộng sản (bất kỳ Cộng sản nước nào) không ai có quyền lập chùa nếu không phải do đảng ra lệnh. Không ai có quyền mở trường dạy học ngoài đảng. Trước đây và bây giờ Cộng sản vẫn vậy và không có gì thay đổi cả. Tất cả chùa chiền đều do cán bộ “sư” công an trọc đầu quản lý, hay gọi là “giám tự”. Ðại hội kỳ I đã bầu Thích Ðức Nhuận làm Tăng thống, Thích Trí Thủ làm Chủ tịch. Năm 1984, Thích Trí Thủ chết, Thích Trí Tịnh thay thế. Vì tính quan trọng cần nhớ nên người viết xin lập lại đoạn trên là: Tất cả các vị Chân Tu bị đuổi ra khỏi chùa và về nhà tu tại gia và vĩnh viễn không được có chùa. Đọc giả nên nhớ cho một điều bất di bất dịch rằng: Dưới chế độ Cộng sản (bất kỳ Cộng sản nước nào) không ai có quyền lập chùa nếu không phải do đảng ra lệnh. Không ai có quyền mở trường dạy học ngoài đảng. Trước đây và bây giờ Cộng sản vẫn vậy và không có gì thay đổi cả. Tất cả chùa chiền đều do cán bộ “sư” công an trọc đầu quản lý, hay gọi là “giám tự”.

Tiện đây cũng xin nói thêm là trong vấn đề thay thế các vị chân tu và chiếm giữ chùa chiền bằng “sư” công an trọc đầu, ta phải nhắc đến “Ðại lão Hòa Thượng” Thích Minh Châu và tập thể đảng bộ Vạn Hạnh. Minh Châu và Thích Đôn Hậu đã là đảng viên Cộng sản cốt cán từ năm 1943 - 1944. Ngay từ lúc mới chân ướt chân ráo đi theo Cộng sản, thì đám này chúng đã không thể bỏ qua Phật giáo. Sau đó Minh Châu được cử đi Ấn Ðộ học về Phật giáo (xin đọc giả chú ý là gần đây có một số “nhà chùa” và một số “sư” … công an đang sống ở Mỹ này lại sang Ấn Độ làm “công quả”, như là giúp xây giếng nước cho dân Ấn Độ ..v.v... Tại sao họ không giúp người nghèo khổ ở Mỹ này mà lại sang Ấn Độ !? Hỏi tức là trả lời vậy). Một số khoảng 15 nghìn tên sau này chúng gởi qua Tây Tạng để “tu học” về Phật Giáo vào năm 1984. Trong kế hoạch trường kỳ này chúng rất uyển chuyển, các cán bộ công an phản gián của đảng sẽ tùy tiện cạo đầu làm sư. Các chùa chiền sẽ trở thành trụ sở hoạt động bí mật và ngoại vi của đảng Cộng sản trước đây, bây giờ và sau này. Người Quốc Gia Việt Nam nên biết rõ vấn đề này và không được lãng quên.


Vì có công lớn trong công cuộc tiến chiếm miền Nam của tập đoàn Việt Gian Cộng sản, cho nên GHPGVNTNAQ đã trở thành một thứ “quốc giáo” và là một tổ chức ngoại vi trung kiên với đảng Cộng sản, nằm trong Mặt Trận Tổ Quốc. Để phòng ngừa khi đảng Cộng sản không nắm vững quyền hành hoặc có thể bị toàn dân lật đổ như liên bang Nga trong thập niên 1990. Khi đế quốc Cộng sản Liên Xô sụp đổ, thì GHPGVNTN Ấn Quang đã chuẩn bị đưa các tên Cộng sản cao cấp lên để trở thành các “tăng thống”, “pháp sư”, “Hòa Thượng”, hoặc giả các đảng viên cao cấp nòng cốt chưa bao giờ biết cạo đầu là gì, thì nay chúng lại cạo trọc đầu giả sư, thay tên trốn trong chùa. Chùa chiền sau đó sẽ trở thành trụ sở hoạt động từ bí mật đến công khai và ngược lại, để tiếp tục trường kỳ đánh phá các chính quyền Quốc Gia cho đến khi chúng cướp lại được chính quyền. Đây là kế sách bọn chúng đã làm và đã hoàn thành.


Tưởng cũng nên nhắc lại là năm 1964, sau khi Tổng thống Ngô Ðình Diệm bị Trung tướng Dương văn Minh cầm đầu phe đảo chánh ra lệnh cho sĩ quan tùy viên của y là đại úy Nhung hạ sát, thì lúc đó đám GHPGVNTN Ấn Quang công khai ra mặt để đánh chiếm miền Nam. Ðúng lúc này Thích Minh Châu trở về nước và thành lập Viện đại học Vạn Hạnh. Viện đại học Vạn Hạnh được gọi là đảng bộ đảng Cộng sản Vạn Hạnh với Nguyễn Trực làm “chính ủy”. Ðến năm 1970, Ðoàn Viết Hoạt và vợ là Trần Thị Thức từ Mỹ, về Hoạt mới làm Phó Viện trưởng (đảng bộ) Vạn Hạnh và Thích Minh Châu làm trưởng. Viện Ðại học Vạn Hạnh đã mau chóng trở thành cơ sở huấn luyện cán bộ Cộng sản. Cuối năm 1974, Thích Minh Châu và Nguyễn Trực đã có thể báo cáo ra Trung Ương Cục Miền Nam rằng chúng đã chuẩn bị xong 1 sư đoàn đặc công Vạn Hạnh với hơn 6,000 khẩu súng các loại và đạn dược với hơn 7,000 sinh viên và thanh niên “phật tử”. Sư đoàn đặc công này được huấn luyện và chuẩn bị chiến đấu trong thành phố, chúng sẽ bắn vào sau lưng quân đội Việt Nam Cộng Hòa để tiếp tay khi bộ đội Cộng sản miền Bắc tiến công đánh vào thành phố Sài Gòn.


Quả đúng như vậy; sáng ngày 30/4/1975, Thích Minh Châu, Nguyễn Trực, Ðoàn Viết Hoạt và toàn bộ ban giảng huấn Ðại Học (đảng bộ) Vạn Hạnh đã cầm đầu sư đoàn đặc công với hơn 6,000 khẩu súng với hơn 7,000 sinh viên cùng với một số cán bộ “sư” công an trọc đầu Cộng sản. Chúng đeo băng đỏ nơi cánh tay, và cầm cờ Phật giáo lên tận ngã tư Bảy Hiền đón quân đội Cộng sản vào chiếm Sài Gòn. Đoàn Viết Hoạt và vợ là Trần Thị Thức hiện nay vẫn đang sống ung dung tại vùng Hoa Thịnh Đốn. Sau này Hoạt và vợ cũng sẽ phải được dẫn độ về Việt Nam để trả lời những việc chúng đã làm. Thiết nghĩ cơ quan anh ninh của Mỹ cũng đã biết rất rõ về vợ chồng Đoàn Viết Hoạt, nhưng họ để yên cũng có lý do của họ. Khi Cộng sản Bắc Việt vào tiến chiếm Sài Gòn thì không khí tại (đảng bộ) đại học Vạn Hạnh, miền Vĩnh Nghiêm và chùa Ấn Quang lúc này vui như ngày Tết, với các “sư” công an trọc đầu Cộng sản đeo súng kè kè, mặt mũi đằng đằng sát khí, canh gác, canh giữ khắp nơi, và mở đường, dẫn đường cho bộ đội Cộng sản vào chiếm đóng các cơ sở, cũng như các trọng điểm hành chính, quân sự, ngân hàng quan trọng trong thành phố Sài Gòn.


Sau đại hội kỳ I ngày 4 và 5/11/1981, của GHPGVNTN Ấn Quang, 21 giáo hội Phật giáo khác bị “cải tạo” để thống nhất làm một. Thích Minh Châu, Thích Quảng Ðộ, Thích Tuệ Sỹ, Thích Trí Siêu và toàn băng “đảng bộ Vạn Hạnh” đã đào tạo và cung cấp cho GHPGVNTN Ấn Quang khoảng 20 ngàn sư công an để làm “giám tự”, chúng chiếm giữ hơn 10,000 chùa chiền toàn quốc. Các vị Chân Tu của 21 giáo hội đều bị đuổi về nhà tu tại gia (như trên có nói), ngày nay một số các vị Chân Tu này họ vẫn còn sống đâu đó trong nước Việt Nam. Từ thời điểm đó đến nay đã đúng 30 năm, bọn “sư công an trọc đầu Cộng sản” đã mở ra nhiều chiến dịch nhằm xóa bỏ tên “công an trọc đầu” với người Việt tị nạn Cộng sản ở hải ngoại. Cho nên bọn “sư” công an Cộng sản trọc đầu Ấn Quang tung ra những tên mới lạ như Thích Trí Tựu, Thích Hải Tạng, Thích Hải Chánh, Thích Trí Lực, Thích Hạnh Ðức, Thích Huệ Ðăng, Thích Không Tánh, Thích Nhật Ban ..v.v... bọn này đều là “sư” trọc đầu công an, và chúng còn có một cái tên khác nửa là “công an giám tự nhà chùa” do Thích Minh Châu, Thích Quảng Ðộ, Thích Tuệ Sỹ, Thích Trí Siêu thuộc đảng bộ Vạn Hạnh đào tạo và kiểm soát .

Vân Anh
xin xem tiếp bài 2


Cám Ơn Ông Vân Anh Đây là bài viết đ đi cho thế h hin ti và sau này có cách đi phó vi lũ gic trc đu. Trước năm 75 chùa là nơi n núp ca ti vit cng nm vùng,sau năm 75 chùa là nơi ca ti vit gian cng sn và công an bò vàng trá hình,nhng vic làm ca ti này Ông Vân Anh đã trình bày rõ ràng và chi tiếc (có ln tui xem qua đon phim và mt s hình nh chính thng chó đ h chí minh(không viết hoa) cũng mượn ca chùa bên nước Lào đ mà làm vic m ám và nó đã đ li cho đám âm binh trc đu nôi gương theo cho đến bây gi. Thy chùa hám li háo danh Mưu mô qu quyt gian manh hung tàn Nguyen Huu Phuoc
By Anonymous on Vân Anh-“Tam Bảo Điền, Tam Bảo Nô” at 8:46 AM




Xin được chân thành ng h bài viết trên ca tác gin Anh. V phn cơ bn tác gi đã góp phn "m mt" cho vô s "Tam bo nô" phc dch không công cho lũ công an đu trc ca tp đoàn Vit gian đi lt cng sn và Pht giáo. Làm sao cho các bài viết trên đây ca tác gi và trang blog nhà báo Vit Thường và Hn Vit đến được vi tht đông đo người đc trong ngoài nước thì ngày tàn ca Vit gian cng sn s phi đến gn hơn .
Chúng tôi cũng đã đang và s góp phn đóng góp trong mng đ tài này, và c gng s đi sâu hơn vào các khía cnh khác đ góp phn đp tan tành tt c cái ma nghip la đo ca bn công an đu trc VGCS này.
Đ duyên s gp.


Trân trng
Khán thính gi ti Đc
Tay chơi Hà ni.
June 24, 2011 2:58 PM

Thứ ba 28 Tháng Sáu 2011
Việt Nam vẫn trong danh sách các quốc gia cần theo dõi về nạn buôn người 
Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton.
Reuters
Trong bản báo cáo thường niên của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ về nạn buôn người trên thế giới vừa công bố hôm qua 27/6, Philippines, Singapore, Lào đã được rút ra khỏi danh sách Loại 2 ( Tier 2) cần theo dõi về tệ nạn này. Trong khi đó, Việt Nam vẫn bị  xếp trong danh sách Tier 2 vì không chứng tỏ được quyết tâm phòng chống nạn buôn người, đặc biệt là buôn lao động sang các nước khác.
Hôm qua 27/6, Ngoại trưởng Hillary Clinton đã công bố bản báo cáo thường niên của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ về nạn buôn người trên thế giới. Trong bản báo cáo năm nay, Hoa Kỳ rút tên Philippines và Singapore ra khỏi danh sách cần theo dõi về tệ nạn này.Hai nước nói trên cùng với Lào được đưa ra khỏi danh sách Loại 2 ( Tier2) , tức là gồm những nước không đáp ứng những tiêu chuẩn về chống nạn buôn người, nhưng đang có nỗ lực theo hướng này.Trong khi đó, Việt Nam vẫn được xếp trong danh sách Tier 2 vì chính quyền Hà Nội không chứng tỏ được quyết tâm phòng chống nạn buôn người, đặc biệt là buôn lao động sang các nước khác.
Bản báo cáo của Bộ Ngoại giao Mỹ nhắc lại rằng Việt Nam là xuất xứ và ở một cấp độ nào đó, cũng là điểm đến của các đường dây buôn người. Lao động nam và nữ của Việt Nam ra nước ngoài làm việc thông qua các công ty xuất khẩu lao động, phần lớn là công ty quốc doanh hoặc công tư hợp doanh, trong các lĩnh vực xây dựng, ngư nghiệp, nông nghiệp, hầm mỏ, khai thác gỗ và sản xuất hàng hóa, chủ yếu tại những nước như Đài Loan, Malaysia, Hàn Quốc, Lào, Liên hiệp các Tiểu vương quốc Ả Rập, Nhật Bản, . . .
Nhiều phụ nữ và trẻ em Việt Nam bị lừa bán vào các động mại dâm ở biên giới Cam Bốt, Trung Quốc và Lào, hoặc từ đó bị bán tiếp sang một nước thứ ba như Thái Lan hay Malaysia.
Theo bản báo cáo nói trên, chính phủ Việt Nam trong năm nay đã thông qua luật mới về phòng chống buôn người, cũng như đã đề ra kế hoạch hành động toàn quốc 5 năm để bài trừ tệ nạn này, nhưng vẫn chưa có những tiến bộ rõ rệt trong việc điều tra, truy tố những người phạm tội buôn nguời cũng như bảo vệ các nạn nhân. Chính vì vậy, trong năm thứ hai liên tiếp, Việt Nam tiếp tục nằm trong danh sách các quốc gia cần theo dõi.
Theo bản báo cáo của Bộ Ngoại giao Mỹ, Việt Nam tiếp tục khuyến khích xuất khẩu lao động để góp phần giải quyết nạn thất nghiệp và nghèo khó, cho nên cần phải có thể các biện pháp để bảo vệ quyền của người lao động Việt Nam ở nưóc ngoài và ngăn chận nạn buôn người, chẳng hạn như phải thi hành nghiêm chỉnh những quy định về các công ty tuyển dụng lao động.

Keine Kommentare:

Kommentar veröffentlichen